Thoại Hà
– Hàng trăm đại biểu đã tham gia Hội thảo Khoa học Quốc gia tại Thành phố Hồ Chí Minh, và viết hơn 40 bài tham luận về nhiều vấn đề và sự phát triển của văn học, điện ảnh, kịch nghệ, nghệ thuật, nhiếp ảnh … . Chủ đề của cuộc tranh luận đã được đặt ra rất rõ ràng, nhưng trong một khoảng thời gian rất ít (17-18 / 11), buổi tọa đàm chỉ được tổ chức như một đánh giá sơ bộ, mà không có một phân tích sâu thực sự về tình hình. Sự phát triển của một khu vực cụ thể. Các lý thuyết và ý kiến phản biện bao trùm toàn bộ buổi hội thảo.
Tuy nhiên, một số bài báo cho thấy rằng tác giả đang thực sự gặp khó khăn trước tình hình phát triển nghệ thuật hiện nay. Từ xứ sở ra đi, trong đó có nhà thơ nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân.
Câu hỏi lớn nhất được các nhà nghiên cứu đặt ra là “Nhà văn Việt Nam đứng ở đâu trong cơ chế thị trường và hội nhập?”. Ông nhận xét rằng với sự tăng trưởng trong khu vực của nền kinh tế Việt Nam, các sản phẩm của Việt Nam ngày càng được xuất khẩu ra thế giới. “Sản phẩm đặc biệt” là những tác phẩm nghệ thuật. Hiếm khi thế giới có thể gặp người Việt và mua tác phẩm văn học của tôi. “- Nhà nghiên cứu Nguyễn Daxuan bày tỏ nhiều băn khoăn về nền văn học Việt Nam qua bài phát biểu gửi đến hội thảo. 80 triệu người nói tiếng Anh bản ngữ đã được nhắc lại hết lần này đến lần khác. Đó là một thị trường lý tưởng cho văn học, nhưng ít nhà văn có thể sử dụng mọi thứ và kiểm soát mọi thứ.
“Văn học chỉ in được vài nghìn bản, thơ chỉ in được để nộp. Chủ yếu là để dành tiền tặng bạn bè”, trên các phương tiện truyền thông, hội thảo, tọa đàm về văn hóa đọc, văn Tình trạng trên đã lặp đi lặp lại nhưng đến nay, tình hình vẫn không có nhiều chuyển biến. Ông Ruan Daxuan nói rằng khi không bán được hàng hóa vật chất, ngư dân & # 7901Tôi phải rà soát lại nguyên liệu, máy móc, quy trình sản xuất và bán hàng, tổ chức hệ thống phân phối, đặc biệt là sản xuất. Văn học là sản phẩm trí tuệ, nhưng đối với thị trường, nó cũng là một loại hàng hóa. Vì vậy, khi không thể “bán” được sản phẩm, liệu người viết của chúng ta có quay lại quá trình “chế tạo” của mình?
Câu trả lời đáng suy nghĩ cho câu hỏi nhức nhối này luôn là: Nó hoạt động như thế nào? Ruan Dxuan thừa nhận: “Đề tài văn học đương đại hiện nằm ngoài phạm vi quốc gia, lớp nhà văn chúng tôi không theo kịp…”.
Đây là một sự thừa nhận đúng đắn, vì nếu nhìn vào bình giá văn học khu vực và quốc tế, tất cả các nhà văn đều chọn đề tài giao lưu văn hóa thế giới, trong đó có hệ tư tưởng. Nhân văn là vấn đề chính của đời sống đương đại. Đồng thời, các nhà văn Việt Nam vẫn đang nỗ lực tìm kiếm đề tài.
Gần đây, nhiều nhà văn lớn tuổi thừa nhận rằng họ không còn hoạt động với tốc độ phát triển và thay đổi như hiện nay. Cho dù có hai đề tài lớn của văn học Việt Nam trước đây, đó là cuộc chiến đấu với Pháp và Mỹ, thì thế hệ nhà văn đi trước cũng không thể viết những tác phẩm mới lạ hơn tên tuổi của mình. Vì vậy, để tiếp tục sáng tạo, tác giả phải nhìn vào vị thế mới dựa trên nền tảng đã hình thành trước đó với con mắt mới. Tác giả Trần Kim Trắc thừa nhận: “Đối với người đương đại, nhịp thở là điều rất quan trọng đối với người cầm bút. Tôi không thể làm được nữa. Chỉ nhìn thế hệ trẻ thôi.”
Không chỉ khó tìm đề tài mà cả những người tham gia hội thảo Nhiều học giả cũng cho rằng, giới cầm bút Việt Nam hiện nay còn thiếu tư tưởng, ít nhà văn được tiếp cận thông tin và hiểu biết. Thế giới đang đổi mới.
Nhà thơ Việt Bằng từng nói rằng yêu cầu tối thiểu để thế giới hiểu là dịch tác phẩmTôi để họ đọc, nhưng tiếc là chúng tôi vẫn chưa làm được gì. Do dịch hai chiều còn tương đối lỏng lẻo nên sự hội nhập của các nhà văn Việt Nam chưa rõ ràng. -Ngoài chủ đề, việc hiểu biết, phê bình, cân đo đong đếm giá trị tác phẩm văn học của người viết cũng là điều nhức nhối. Ở Việt Nam không có trường cao đẳng văn học nên việc phê bình rất tự phát và thiếu chuyên nghiệp. Thực tế, số lượng nhà phê bình văn học rất ít, lại có nhiều kiểu nhà phê bình xin lỗi, chửi thề để xuyên tạc một cách tùy tiện …- Cục trưởng Cục Nghệ thuật biểu diễn Lê Ngọc Cường từng điểm lại một cách cụ thể về phát triển văn hóa đọc ở Việt Nam còn rất kém. Lớn. Ở các vùng nông thôn, miền núi kém phát triển, do ngân sách không đủ nên cơ sở vật chất, thư viện còn quá thô sơ và tạm bợ. Hiện cả xã, thôn có 9.000 thư viện và hầu như không có sách để đọc. “Trong số đó, tỷ lệ sách trên một người là 1/4 số người đọc”, ông Cường nói.