ng, tuyên bố tuyệt vời, cuộc sống, sự ngờ vực, sự bất lực, sự mất mát của cuộc sống, cái chết, sự nghi ngờ về sự tồn tại và giá trị của cán cân bất an của con người đã thay đổi mạnh mẽ. Đây là ý tưởng phổ biến nhất. Biểu hiện của chúng trong văn học rất đa dạng và phức tạp. Chúng tôi có thể trích dẫn một số ví dụ từ các bài văn gần đây (do bài viết dài, vui lòng không bàn đến các bài văn khác). Ví dụ, trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, có những câu chuyện về sự tầm thường của cuộc đời, sự vô cảm của con người và sự bất lực cao đẹp. Trong “Van Siai”, đây là câu chuyện về một thế giới vô hồn, trong đó hầu như không có sự tiếp xúc của con người, và nó là về sự tan vỡ. Tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương bị cản trở bởi sự khủng hoảng niềm tin của con người, sự khủng hoảng của nhà văn vào con người và cuộc sống, sự tàn phá đời sống xã hội và gia đình, sự sống chết, đánh mất bản thân, lãnh đạo, băng hoại đạo đức, đau khổ bất lực và sự bất an của con người. . Cuốn tiểu thuyết của Ruan Yuexia thể hiện quan điểm của ông về cuộc sống hỗn loạn, đổ vỡ. Văn chương của Duy Anh (Tạ Duy Anh) là đi tìm cái tôi, tìm ra giá trị đích thực của con người trong cuộc đời điêu tàn, tàn lụi, lý giải và giải quyết nỗi đau đấu tranh của con người trong kiếp trước. Tiểu thuyết Thái của Hồ Anh coi cuộc đời như những mảnh vụn và khéo léo thể hiện sự hoang mang của con người … Nhà văn hậu hiện đại có ca ngợi chủ nghĩa hư vô? Đừng. Tôi nghĩ trách nhiệm công dân của họ còn cao nhưng họ ý thức rất rõ về sự “bơ vơ” của mình. Văn học hậu hiện đại dường như cũng có xu hướng khước từ sứ mệnh cao cả mà lịch sử trao tặng. Người viết, không dám ở trong tám con quái vật của cuộc đời để khai báo. Được viết như là nghiệp chướng cho họ bây giờ, hoặc chỉ là một cách chơi chữ. Từ trước đến nay, chưa bao giờ văn học nói về giới hạn của nó một cách rộng rãi như vậy. Anh đau đớn vặn vẹo. Nó mong manh, chàng trai nhỏ. Như hoa dại. Nếu thuật ngữ “ý nghĩa hậu hiện đại” được xác nhận, thì tôi gọi nó là một biểu hiện của loại cảm giác đặc biệt này. -Để truyền tải và thể hiện thái độ hậu hiện đại cần phải có một hình thức nghệ thuật và một kỹ thuật đặc biệt. Tôi chỉ nói về nó ở khía cạnh chung nhất: hình thức trực quan – hình thức thế giới quan là một biểu tượng quan trọng của tư tưởng hậu hiện đại. Đây là những hành động của mô hình truyện ngắn của Nguyen Huipi, là những nguyên tắc cấu trúc thể hiện tính lịch sử của ý thức thời gian: tính đa dạng và tính liên tục của các quan điểm nghệ thuật. Không có nhân vật trung tâm lý tưởng; sự biến dạng của nhân vật và vai trò của nhân vật trong ảnh; vô số bức ảnh bắt chước; nhiều mục đích; có thể bị “mê hoặc”; sự thay thế, pha trộn phá vỡ ranh giới của các thể loại truyền thống; một loại “trò chơi ”, một Thể loại truyện ngắn-phim tài liệu, truyện ngắn-nhật ký, truyện ngắn-dòng tâm thức, truyện ngắn-chân dung. Tiểu thuyết của Nguyễn Bính Phục luôn có nhiều câu thoại ngược trở thành những cấu trúc song song méo mó, chứa đựng những bộn bề, bạo lực và đau thương của cuộc đời mà nhiều khi trong đời sống không thấy có hiện tượng này. Nhiều câu chuyện và nhiều nhân vật bị cố tình lãng quên; sau đó câu chuyện trở nên nổi bật; thiết lập một quan điểm độc đáo; sự kết hợp của nhiều kỹ thuật nghệ thuật, âm nhạc và phim ảnh; giọng nói rõ ràng và tiếng ồn bao gồm sự phức tạp và phổ biến của ngôn ngữ tiểu thuyết; đối thoại “Chênh vênh” là phi lý, giống như nhân vật chết chìm, hiện tượng “chết chìm” trong bể chữ là vô ích trong cuộc sống. Khi đọc bài báo của Ruan Yuexia, tác giả nhận thấy rằng hầu như chỉ có một phân tích vai trò rất hạn chế trong việc hiểu tâm lý của anh ta. Quan điểm và câu chuyện liên tục thay đổi và thay đổi.
Nhân vật chính ở đây dường như có khả năng thay thế biên kịch trong truyện. Mọi người đều giống như một “nguyên tử” ở vô số ngã tư. Anh ấy kể câu chuyện của chính mình và kể ý kiến của mình cho người khác. Thực tế khác nhau tùy theo ý kiến của bạn. Sự kiện có thể được nhìn lại từ nhiều góc độ, nhưng các khoảnh khắc tường thuật không nhất quán. Sau đó, cách kể nhiều truyện, nhiều văn bản, chủ đề rời rạc, trần thuật không trọng tâm đã cố tình bộc lộ sự can thiệp của tác giả vào câu chuyện, biến tiểu thuyết thành một vở kịch. Khám phá, thử nghiệm và sau đó, hài hước, kỳ cục và bắt chước được sử dụng như các nguyên tắc tổ chức của công việc. tài giỏig chỉ là một thủ thuật, nó trở thành một hình thức trực quan. Trái ngược với sự đơn điệu, những sự bắt chước trong tiểu thuyết của Ruan Yuehe, những vở hài kịch, những trò lố bịch trong tiểu thuyết của He Antai … vừa “nắm bắt” được bản chất thực sự của vật thể, vừa là học giả về tư tưởng, ý thức về văn hóa đại chúng, và sức mạnh vô song của dân gian. hài hước. Hơn nữa, bằng sự tự giả của mình, văn chương không chỉ là sự nghi ngờ về trật tự của cuộc sống, mà còn là sự nghi ngờ của con người đối với khả năng và sứ mệnh mà con người thường trao cho cuộc đời.
Đọc Tạ Duy có thể lý giải góc độ khai thác mong manh, thời gian, sự chồng chất của sự kiện, sự phóng chiếu sự kiện, chủ đề, nhân vật, v.v. từ những góc độ khác nhau, v.v … Bạn sẽ hỏi: Đây chẳng phải là trong văn học hiện đại ? Vì vậy, ai có thể nói rằng không có dấu vết của nghệ thuật trung đại và dân gian trong văn học hiện đại? Ai nói rằng chủ nghĩa lãng mạn không có yếu tố hiện thực? Câu hỏi đặt ra là, cái gì là không đổi trong những cách diễn đạt này, chiến lược và bản chất của nghệ thuật, và hình thức tư tưởng của nhà văn. Văn học hậu hiện đại chắc chắn không phải là sự đột phá với truyền thống. “Chủ nghĩa hậu hiện đại không phải là dấu chấm hết của chủ nghĩa hiện đại (…), mà là mối quan hệ khác với hiện đại” (J.F. Lyotard). Ở đây tôi thấy nhiều yếu tố truyền thống vẫn đang nở rộ trong văn học hậu hiện đại. Chẳng hạn, trong nguyên tắc tổ chức tác phẩm, có nhiều loại dấu hiệu, nhấn mạnh đến sự phân mảnh của vật thể, hình thức huyền thoại… Không phải là sự cách tân nghệ thuật như vậy sao? Cách công chúng đọc văn học đã thay đổi rất nhiều. Và từ đây, nhiều ngóc ngách và khoảng trống trong cuộc sống đã được thay đổi, nhiều cung bậc nhận thức của con người đã được khám phá và nhiều nghiên cứu thực nghiệm đã được chứng minh. chỉ một. Trong trường hợp của chúng tôi, hướng này không tách rời. Đó không chỉ là sự hấp thụ văn học nước ngoài, mà còn là sự thức tỉnh những cội nguồn và “khuôn mẫu” truyền thống. Điều này đúng ngay cả với sự hiện đại hóa các hình thức, và quá trình này ít nhiều bị gián đoạn bởi thời kỳ “văn học sử thi”. Đừng nghi ngờ những điều mới, những điều mới không tốt. Tôi cho rằng xu hướng phát triển văn học hậu hiện đại là một xu hướng cần được khuyến khích. Đây không phải là sự lặp lại, tranh cãi, trộn lẫn tùy tiện mà là sự chuyển đổi mô hình tư tưởng, và quan trọng hơn cả là yêu cầu tất yếu của lịch sử – xã hội và của chính văn học. Có thể gọi như vậy, ngoài những khuynh hướng thử nghiệm khám phá khác xuất hiện nhiều màu sắc trong văn học Việt Nam sau năm 1986, thì phải chăng đó là một xu hướng văn học đang phát triển theo hướng hội nhập với tiến trình văn học thế giới? –Đài Lai, tháng 5 năm 2007
(Nguồn: Văn Nghệ, ngày 8 tháng 12 năm 2007)