Mọi người nói với cô Chương, một phụ nữ đáng yêu đến từ thủ đô Huế ở miền trung Việt Nam. Hoàng đế Tống Khánh trị vì một thời gian ngắn từ 1885 đến 1889 là ông nội của ông. Kể từ đó, một loạt anh em họ của ông đã lên ngôi. Là một thành viên của hoàng gia, cô được coi là một công chúa, cô là đại diện cho nét quyến rũ truyền thống, ngoại lệ duy nhất là – khi mỉm cười, răng cô trắng như ngọc. Cô chống lại thói quen làm đen răng bằng canxi oxit. Đối với những người lớn tuổi trong gia đình, nụ cười trắng tinh khiết của anh ta thật kinh tởm, giống như một cái miệng đầy xương. Những chiếc răng trắng dài thuộc về những kẻ man rợ và thú dữ. Làm cho chúng màu đen để thoát khỏi nỗi sợ hãi của những linh hồn xấu xa ẩn náu ở đâu đó trong cơ thể con người. Một cái miệng với hàm răng đen sáng bóng là biểu hiện truyền thống của sự thanh lịch và vẻ đẹp.

Nhưng đối với Chương, nụ cười trắng rực rỡ đã biến cô dâu của anh thành một bức chân dung hoàn hảo. Người phụ nữ hiện đại. Chương đã quen với niềm vui châu Âu khi đi du học. Ông thích thơ ca, rượu vang Pháp, phim ảnh phương Tây và xe máy. Từ bỏ truyền thống, Chuong tự cắt mái tóc dài của mình thành búi tóc và từ bỏ thói quen quấn đầu người dân bằng khăn trùm đầu điển hình có cùng đẳng cấp và đẳng cấp như anh. Tóc dài là một lý tưởng Nho giáo, và giá trị của lòng hiếu thảo áp dụng cho cơ thể, tóc, da và tất cả cuộc sống mà trẻ em dành cho cha mẹ. Nhưng thực tiễn phương Tây cản trở quá trình này. Ông Chương đã tóm tắt sự tiến bộ với mái tóc ngắn, bộ đồ và phong cách luật sư làm việc với chính quyền thuộc địa. Do đó, anh sẽ không bao giờ chấp nhận một cô gái có hàm răng đen làm vợ.

Ông Chen Wenzhong và ông Nan Wenzhong. Ảnh: Cặp đôi kết hôn năm 1912. Năm sinh được liệt kê dưới chân mộ bà Zhang và năm được liệt kê trong thông báo tử vong của Sở Cảnh sát Thủ đô 1986 là năm 1910. Thời gian cho đám cưới.

Các cô gái ở đất nước đó đã kết hôn khi họ còn rất trẻ, khoảng mười ba hoặc mười bốn. Điều này không phải là bất thường, nhưng có rất ít cô gái. Mỗi cô dâu chỉ là một đứa trẻ. Thậm chí còn khó khăn hơn để xem xét thực tế là cả hai gia đình đều là ưu tú. Họ có khả năng chờ đợi. Một lời giải thích hợp lý là ngày sinh của cô Trương Zhang đã được sửa đổi, khiến cô dễ dàng hư hỏng ở Hoa Kỳ vì tuổi tác khiến cô không thể chống lại những gì cô nói. -Nhưng ở Việt Nam, tuổi làm tăng uy tín. Mọi người không có lý do để cố gắng để trông trẻ. Có lẽ cô Zhang thực sự là một cô dâu hai tuổi. Một thời gian dài sau đám cưới, anh họ của cô đã kết hôn. Con gái đầu lòng của họ, Lê Chi, chào đời sau gần mười năm kết hôn. Có thể mất một thời gian để cô dâu trẻ đến tuổi thụ thai. -Ông Chuong vẫn còn là một thiếu niên trong ngày cưới. Anh sinh năm 1898, có nghĩa là anh chỉ mới 14 tuổi khi kết hôn. Chuong là con trai cả của Trần Văn Thông, là thống đốc nổi tiếng của Tokyo, Pháp. Theo hồ sơ của ông trong Lưu trữ thuộc địa Pháp, Chuong rời khỏi Việt Nam và người vợ trẻ ngay sau khi kết hôn. Anh đến Pháp và Bắc Phi để tiếp tục học.

Tính toán thời gian của Junior Chuong là hoàn hảo. Trước khi Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ, ông rời khỏi Đông Dương. Ngay cả một năm muộn trong những năm chiến tranh cũng không thể rời đi. Các sự kiện trên khắp thế giới đã buộc thanh niên Chuong phải sống xa nhà hơn mười năm. Anh ta đã có thể tận dụng các cơ hội giáo dục đơn giản được tìm thấy ở châu Âu, nhưng ngay cả với địa vị xã hội của anh ta, anh ta chưa bao giờ nghe nói về tiếng Việt. Chuong học tại các trường trung học ở Algiers, Montpellier và Paris, và nhận bằng tiến sĩ luật năm 1922. Ông là người Việt Nam đầu tiên làm điều này.

Trong những năm anh đi du học, căng thẳng ở thuộc địa Việt Nam ngày càng dữ dội. Chính quyền Pháp bắt đầu tuyển dụng “tình nguyện viên Việt Nam” cho chiến trường châu Âu, buộc hàng ngàn nông dân và công nhân nghèo phải kiểm tra dự án. Người Pháp nhanh chóng đàn áp mọi dấu hiệu nổi loạn hoặc kháng cự, và “trở về nhà” để tìm kiếm những kẻ phản bội.Ngày càng có nhiều người đổ lỗi cho cơ hội giáo dục của Việt Nam. Trường trung học Pháp đầu tiên và duy nhất trong một thời gian dài, Chasseloup-Laubat ở Sài Gòn, dành riêng cho con trai của chính quyền châu Âu. Nhưng với cuộc chiến hoành hành ở châu Âu, tình trạng thiếu lao động ngày càng trở nên rõ ràng. Chế độ thuộc địa nhận ra rằng nếu muốn sống sót, nó sẽ cần tuyển thêm người bản địa được đào tạo tại Pháp. Hy vọng rằng sự truyền bá tư tưởng Pháp của người Việt sẽ mang lại cho người dân bản địa gần gũi hơn với quê hương. Tuy nhiên, kết quả thật mỉa mai: bằng cách giáo dục tiếng Việt theo các nguyên tắc phương Tây bao gồm lý tưởng tự do và lịch sử Cộng hòa, các cải cách giáo dục đã góp phần vào sự tăng trưởng của nhu cầu. Sự thật đã chứng minh rằng tìm kiếm quyền lực chính trị không thể bị loại bỏ.

Khi Chuong cuối cùng trở về Việt Nam ở tuổi 24, việc học ở phương Tây của anh đã đạt được kết quả tốt đẹp. Chà, ông đã có được một học nghề đầy triển vọng trong ngành tư pháp thực dân Pháp và có được quyền công dân Pháp vào ngày 16 tháng 9 năm 1924, chưa đầy một tháng sau khi sinh con gái thứ hai.

Ngay sau khi cô Zhang và con gái rời khỏi cái kén, cô Zhang đã mang thai lần thứ ba và lần cuối cùng trước sinh nhật thứ 16 của cô. Năm 1925, cô hạ sinh con trai Trần Văn Khiêm, người mà cô luôn hy vọng. Sự ra đời của đứa con trai đã chấm dứt trách nhiệm sinh sản của anh. Điều này cũng khẳng định địa vị thấp kém của Lê Xuân trong gia đình.

Phần 1, tiếp tục …

(Trích từ Bà Như Trần Lê Xuân – Sức mạnh của Bà Long, Tác giả Monique Brinson Demery Tác giả, Người phiên dịch Mai Sơn (Mai Sơn, Nhà xuất bản Nan Fung-Nhà xuất bản Hội Nhà văn)